(Viết theo sự đặt bài của Hội nghị KH nữ CBCC Đại học Huế nhân ngày 20-10-2004)
|
"What the Scientists have been doing for us?" |
|
|
|
|
Ngoài
việc giảng dạy, sứ mệnh thứ hai của chúng tôi là làm nghiên cứu, tôi
xin tản mạn một số suy nghĩ về sự nghiệp làm khoa học của các nhà khoa
học là phụ nữ và phụ nữ Việt Nam nói riêng, cũng như những công việc của
chính chúng tôi.
Sự
thành bại của hoạt động trí tuệ nói chung và những người hoạt động khoa
học nói riêng không phải chỉ phụ thuộc vào trí thông minh, mà phần lớn
là do có hay không tình yêu lao động, từ đó dệt nên tính cần cù để ngày
ngày tích luỹ sự thành công. Thomas Alva Edison, nhà phát minh thiên tài
người Mỹ (1847-1931) từng nói rằng: “Thiên tài được hình thành nhờ 1%
trí thông minh, còn 99% là do sự siêng năng cần cù!”2
Những
tài danh khoa học nữ trên thế giới như Marie Curie hay Sofia
Kovalevskaya đều đi đến với sự nghiệp trên một con đường chông gai,
nhưng đã thành công trong sự nghiệp nhờ vào sự kiên trì vượt khó và
trong đó còn bao gồm yếu tố cá tính mạnh mẽ quyết tâm theo đuổi hoài bão
khoa học của mình.
Các
nhà khoa học nữ ở Việt nam, mặc dù đang sống và hoạt động trong thời
đại mới, có nhiều chính sách ưu việt về giới, nhưng trong tiềm thức sâu
xa của quan điểm từ mỗi địa phương, mỗi gia đình, cái nhìn về vị trí
người phụ nữ trong xã hội dẫu không hoàn toàn còn “tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu ...” nhưng vẫn nhẹ nhàng rằng: ”thiên
chức của người phụ nữ là làm mẹ và làm vợ”. Thật ra phụ nữ chúng ta yêu
thích điều đó và cũng tự hào về điều đó lắm. Nhưng, chưa nói gì về
chuyện vai trò xã hội, mà riêng về chuyện kinh tế gia đình, thì điều
kiện của ta cũng chưa cho phép người phụ nữ chỉ vui vẻ với thiên chức
trên. Hơn nữa, như đã nói ở trên, tư chất của người lao động nói
chung và người làm khoa học nói riêng là phải cần cù, kiên trì và dũng
cảm, nếu phân tích về yếu tố tâm sinh lý qua các thời đại, người phụ nữ
Việt nam có đủ các tố chất này, chưa dám nói là so sánh bằng hay hơn đối
với người khác giới. Thật ra, tự thuở sơ khai mở nước, thấy rõ trong
lịch sử hào hùng của nước Việt, những người anh hùng đầu tiên của dân
tộc lại là các bà Trưng!
Sự
nghiệp làm khoa học của người phụ nữ Việt nam đến rất muộn so với thế
giới, nhưng ta có những chị như Hoàng Xuân Sính, Trần Thanh Vân và hơn 30 phụ nữ đoạt
được giải thưởng Kovalevskaya. Thế
nhưng, khi có sự nghiệp, có nghĩa cũng là thêm một gánh trách nhiệm lên
vai người phụ nữ. Khi nói về khái niệm “hết mình” trong sự nghiệp làm
văn của một nữ nhà văn, Nguyễn Thị Thu Huệ đã nói rằng: “Phụ nữ viết văn
không phải chuyện đơn giản, bởi bên cạnh còn biết bao chức phận khác.
Làm con đối với mẹ, làm mẹ đối với con, chỉ riêng hai điều đó cũng đủ để
tôi bù đầu cả ngày. Nếu trong gia đình người bố viết văn, thì tức khắc
công việc đó mới thiêng liêng làm sao. Nếu là đêm mùa hè, người vợ sẽ
lặng lẽ đặt lên bàn cốc nước mát, rồi suỵt lũ trẻ không được làm ồn “để
yên cho bố làm việc”. Còn người phụ nữ viết văn như tôi, liệu có thể từ
chối con mình khi chúng đến nắm áo vòi vĩnh, trong lúc đang say sưa với
những ý tưởng văn chương sáng tạo”3. Là một người phụ nữ làm
khoa học, tôi hoàn toàn tìm thấy sự đồng cảm trong sự bộc bạch này.
Đang say sưa với tiến độ công việc, bỗng giật mình vì chưa đi chợ, đang
mải miết phân tích số liệu chợt nhớ mình quên đón con. Đó là chuyện
thường tình. Có lần có một người bạn bác sỹ hẹn tới nhà vào buổi trưa,
thấy tôi chưa về mà trong nhà chưa có gì ăn, chị vội ra chợ mua giúp
thức ăn, mãi không thấy tôi về, chị bèn vào bếp nấu luôn, hôm ấy tôi
đang chuẩn bị mẫu để phân tích tại phòng thí nghiệm, cố cho xong công
việc rồi về, không dè đã muộn lắm lúc nào không biết! Chưa kể một ngày
gần đây nhất, sau khi viết xong một bài báo, tôi thở phào, chợt nghe mùi
khét, nhìn quanh nhà rồi xuống bếp, hoá ra tôi đã hầm một nồi xương với
ngó sen thành than!
Nói
cho cùng, ta vẫn là phụ nữ Việt nam, nên ta vẫn nâng niu thiên chức của
mình, không thể không giành thời gian chiều chuộng con, chăm sóc bố mẹ
và giúp đỡ chồng. Rồi tối đến, khi mọi người đã ngủ, ta một mình một
vương quốc, có thể làm việc suốt đêm!
Đó
là mới nói về chuyện đời sống hằng ngày, còn trong công việc, đâu là
khó khăn, gì là thuận lợi? Chúng tôi là những người làm công tác khoa
học nông nghiệp, đối tượng là các miền quê, là cánh đồng, là chuồng bò,
trại lợn. Những người hoạt động khoa học đều có một tấm lòng muốn làm
cái gì cho đời sống dân mình được nâng cao hơn, người nông dân mình đỡ
cực nhọc vất vả hơn. Thế là mỗi người một xe máy, đi về chẳng kể nắng
mưa. Đa số chị em hoạt động khoa học ở khoa chúng tôi, sau nhiều năm làm
chủ trì các đề tài nghiên cứu cấp trường, cấp bộ và cấp nhà nước cũng
như nhiều đề tài hợp tác với các quốc gia khác, đều có một tư thế chủ
động đầy tự tin khi thảo luận với nông dân cũng như ngồi ở các nghị
trường hội thảo quốc gia và quốc tế. Chúng tôi gắn bó, liên kết và hoà
đồng giữa mối quan hệ nhà nông - nhà khoa học - chuyên gia quốc tế. Điều
đó không phải ngày một ngày hai mà làm được, để cho nhà nông hiểu vấn
đề nghiên cứu dễ dàng như họ hiểu chính cánh đồng và gia súc của họ,
mình phải đưa công việc của họ vào chính công việc của mình, khả năng
chuyên môn và ngoại ngữ phải đủ để cho chuyên gia quốc tế sẵn sàng hợp
tác với mình và nông dân mình tiếp nhận được kinh nghiệm từ họ. Sở dĩ
tôi bảo vệ thành công đề cương “Sử dụng nguồn thức ăn địa phương để chăn
nuôi trâu bò có hiệu quả” trước hội đồng khoa học nhà nước, là vì vấn
đề tôi đưa ra được đánh giá có tính khả thi, gắn liền với mong ước thực
tiễn của người nông dân cũng như tiếp cận với phương pháp nghiên cứu mới
nhất trong lĩnh vực nghiên cứu. Điều đó có được do mình hiểu nông dân
mình và các nhà chuyên môn quốc tế tầm cỡ tin tưởng lối làm việc của
mình qua nhiều năm cộng tác trong nghiên cứu. Chúng tôi vừa làm nhà khoa
học, vừa làm học trò, kể cả là học trò của chính các nhà nông, việc
đồng áng làm cho các nhà khoa học nẩy ra những vấn đề nghiên cứu. Đề tài
khoa học nông nghiệp đầu tiên tôi thực hiện độc lập chính là từ sự đề
xuất của nông dân trong một lần về làm việc với xã Hương Vân, huyện
Hương Trà. Họ nói rằng lạc hằng năm được thu hoạch với sản lượng lớn,
nhưng phần lá lạc thì hầu như bỏ vì rất mau thối hỏng, các thầy các cô
có thể giúp nghiên cứu cách gì để sử dụng cho chăn nuôi không? Thế là đề
tài sử dụng lá lạc ủ trong chăn nuôi lợn thịt của tôi ra đời trong
chương trình hợp tác nghiên cứu với Thuỵ Điển. Điều lí thú là chúng tôi
có mối quan hệ làm việc tay ba: nhà khoa học nữ - hội phụ nữ xã - người
chăn nuôi chính tại các nông hộ cũng thường là phụ nữ luôn! Chúng ta
thường nói: “phụ nữ với nhau dễ hiểu nhau”, dường như các chị nông dân
rất thích thổ lộ cái vui cái buồn trong chăn nuôi của họ với các nhà
khoa học nữ..
Song
le, lại trở về vấn đề “thiên chức”, phàm đã làm khoa học thì lại phải
đi công tác, tham dự hội nghị, hội thảo ...việc đi thì phải đi mà tâm để
ở nhà, lo con không ai đón, lo cha, mẹ trái gió trở trời không người biết
chăm, lo mấy chậu cây nắng già bị quên tưới, lo bữa ăn chưa hợp khẩu vị
cho cả nhà... một nỗi lo triền miên của những người phụ nữ. Thế, nhưng
một khi đã đảm nhiệm một đề tài, các chị em lại nhẫn nại như con ong cái
kiến, lại thể hiện sự hết mình cho công việc.
Tiến
sỹ Đoàn Hương có nói rằng: “Trong khoa học, không có nhà khoa học nam
hay nhà khoa học nữ. Cũng không có đặc ân cho các nhà khoa học nữ. Chúng
ta bình đẳng với các nhà khoa học là nam giới. Chúng ta có quyền thảo
luận, ngay cả tranh cãi với họ”4. Các nhà khoa học nữ đều
đứng trên quan điểm đó khi dấn thân vào sự nghiệp làm khoa học, đó là
một sự quả cảm, vì bên cạnh đó, ta biết rằng ta vẫn được gọi là “phái
yếu” và ta chẳng chối từ được những bản năng làm con, làm mẹ, làm
vợ! Rồi thì, phải chăng vì những bản năng đó mà hình thành nên tính bền
bỉ và cần cù trong lao động khoa học cho các nhà khoa học nữ ở Việt
nam.
Huế 1/10/2004
Quế MF
__________________________________________
1Khoa khoa học vật nuôi,Đại học Nông Lâm Huế
2Edison, Thomas Alva, Encyclopedia Article
http://encarta.msn.com/encyclopedia_761563582/Thomas_Edison.html
3Nguyễn Thị Thu Huệ-Người đẹp viết văn
http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2004/04/3B9D180F/
4My life is associated with scientific works
http://www.vov.org.vn/2004_06_27/english/baituan/nhanvatvasukien.htm