Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Bài trích đăng trên báo Khampha.vn


http://khampha.vn/toi/phai-yeu-lam-khoa-hoc-vua-xay-lua-vua-am-em-c8a67319.html

TS. Võ Thị Kim Thanh dự hội nghị khoa học tại IAEA
TS. Võ Thị Kim Thanh dự hội nghị khoa học tại IAEA

Phái yếu làm khoa học: Vừa xay lúa, vừa ẵm em 


Thứ sáu, 08/03/2013, 06:05 (GMT+7)

“Gần đây nhất, sau khi viết xong một bài báo cáo, tôi thở phào, chợt nghe mùi khét. Nhìn quanh nhà rồi xuống bếp, hoá ra tôi đã hầm một nồi xương với ngó sen thành than!” - Đó là một trong những câu chuyện vui có thật của TS. Võ Thị Kim Thanh (Trường ĐH Nông - Lâm Huế).





LTS: Thành ngữ có câu “xay lúa thì khỏi ẵm em",  nhưng có ý kiến cho rằng phụ nữ ngày nay ”vừa phải xay lúa, vừa phải ẵm em”.  Với phụ nữ theo con đường khoa học dù có đam mê, say nghề đến mấy thì cũng cần phải cân đối giữa công việc và gia đình. Phải làm thế nào để họ có thể dồn hết tâm lực vào nghiên cứu khoa học nhưng vẫn có một gia đình yên ấm, hạnh phúc như mong muốn của bất kỳ người phụ nữ nào?
Dưới đây khampha.vn xin trích đăng những tâm sự - những câu chuyện đời thực của Tiến sĩ Võ Thị Kim Thanh (Đại học Nông Lâm - Huế) để thấy phần nào sự cố gắng của một phụ nữ khi họ dấn thân theo con đường khoa học.
“Tìm” tiền ở đâu?
... Các bạn đừng hỏi tôi là làm thế nào để tìm kiếm được nhiều đề tài được cấp tiền mà hãy hỏi tôi đã làm gì để các tổ chức khoa học tin tưởng giao đề tài nghiên cứu. Để đạt được điều mình muốn, để thỏa niềm đam mê của mình, tôi phải bỏ tiền ra trước, phải trằn mình không ngại khó ngại khổ, lặn lội không quản mưa gió về các trại heo, trại bò.
... Sở dĩ tôi bảo vệ thành công đề cương “Sử dụng nguồn thức ăn địa phương để chăn nuôi trâu bò có hiệu quả” trước hội đồng khoa học nhà nước, là vì vấn đề tôi đưa ra được đánh giá có tính khả thi, gắn liền với mong ước thực tiễn của người nông dân cũng như tiếp cận với phương pháp nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu. Điều đó có được do mình hiểu nông dân mình và các nhà chuyên môn quốc tế tầm cỡ tin tưởng lối làm việc của mình qua nhiều năm cộng tác trong nghiên cứu.
 - 1
TS. Võ Thị Kim Thanh cùng ông Malcom Bruce (Bộ trưởng Bộ Phát triển quốc tế Anh) làm việc với nông dân tại huyện Hương Trà, TT-Huế
Đa số các nhà KH nữ ở trường chúng tôi đều gần gũi với nhà nông và tự tin, thoải mái ở các hội thảo quốc tế. Muốn làm được điều đó, chúng tôi vừa làm nhà khoa học, vừa làm học trò, kể cả là học trò của chính các nhà nông. Việc đồng áng làm cho các nhà khoa học nẩy ra những vấn đề nghiên cứu.
Đề tài khoa học nông nghiệp đầu tiên tôi thực hiện độc lập chính là từ sự đề xuất của nông dân trong một lần về làm việc với xã Hương Vân, huyện Hương Trà, TT-Huế. Họ nói rằng lạc hằng năm được thu hoạch với sản lượng lớn, nhưng phần lá lạc thì hầu như bỏ vì rất mau thối hỏng, các thầy các cô có thể giúp nghiên cứu cách gì để sử dụng cho chăn nuôi không? Thế là đề tài sử dụng lá lạc ủ trong chăn nuôi lợn thịt của tôi ra đời trong chương trình hợp tác nghiên cứu với Thuỵ Điển.
 - 2
TS. Võ Thị Kim Thanh cùng đoàn Bộ Khoa học-Công nghệ làm việc tại Bộ Ngoại gia Italy 2004
Điều lí thú là chúng tôi có mối quan hệ làm việc tay ba: nhà khoa học nữ - hội phụ nữ xã - người chăn nuôi chính tại các nông hộ cũng thường là phụ nữ luôn! Chúng ta thường nói: “phụ nữ với nhau dễ hiểu nhau”, dường như các chị nông dân rất thích thổ lộ cái vui cái buồn trong chăn nuôi của họ với các nhà khoa học nữ..
Nếu làm chỉ vì mục tiêu kiếm tiền thì công tác nghiên cứu khoa học không phải là công việc lý tưởng! Vì nếu các bạn kiếm được một ít tiền trên đó, các bạn trả giá khá đắt! Vì phải lao tâm khổ tứ, chậm ăn, mất ngủ, gia đình thiệt thòi! Chưa kể nhiều chuyện phiền toái khác.
Chợt nhớ: Quên đón con, nồi xương hầm trên bếp...
Tôi rất thích câu nói của Tiến sỹ Đoàn Hương rằng: “Trong khoa học, không có nhà khoa học nam hay nhà khoa học nữ. Cũng không có đặc ân cho các nhà khoa học nữ. Chúng ta bình đẳng với các nhà khoa học là nam giới. Chúng ta có quyền thảo luận, ngay cả tranh cãi với họ”.
Những tài danh khoa học nữ trên thế giới như Marie Curie hay Sofia Kovalevskaya đều đi đến với sự nghiệp trên một con đường chông gai, nhưng đã thành công trong sự nghiệp nhờ vào sự kiên trì vượt khó và trong đó còn bao gồm yếu tố cá tính mạnh mẽ quyết tâm theo đuổi hoài bão khoa học của mình.
Thế nhưng, khi có sự nghiệp, có nghĩa cũng là thêm một gánh trách nhiệm lên vai người phụ nữ. Khi nói về khái niệm “hết mình” trong sự nghiệp làm văn của một nữ nhà văn, Nguyễn Thị Thu Huệ đã nói rằng: “Phụ nữ viết văn không phải chuyện đơn giản, bởi bên cạnh còn biết bao chức phận khác. Làm con đối với mẹ, làm mẹ đối với con, chỉ riêng hai điều đó cũng đủ để tôi bù đầu cả ngày. Nếu trong gia đình người bố viết văn, thì tức khắc công việc đó mới thiêng liêng làm sao. Nếu là đêm mùa hè, người vợ sẽ lặng lẽ đặt lên bàn cốc nước mát, rồi suỵt lũ trẻ không được làm ồn “để yên cho bố làm việc”. Còn người phụ nữ viết văn như tôi, liệu có thể từ chối con mình khi chúng đến nắm áo vòi vĩnh, trong lúc đang say sưa với những ý tưởng văn chương sáng tạo”. Là một người phụ nữ làm khoa học, tôi hoàn toàn tìm thấy sự đồng cảm trong sự bộc bạch này.
Nhiều khi đang say sưa với tiến độ công việc, bỗng giật mình vì chưa đi chợ. Đang mải miết phân tích số liệu chợt nhớ mình quên đón con.
Có lần, một người bạn bác sỹ hẹn tới nhà vào buổi trưa, thấy tôi chưa về mà trong nhà chưa có gì ăn, chị vội ra chợ mua giúp thức ăn. Mãi vẫn không thấy tôi về, chị bèn vào bếp nấu luôn. (Hôm ấy tôi đang chuẩn bị mẫu để phân tích tại phòng thí nghiệm, cố cho xong công việc rồi về, không dè đã quá muộn lúc nào không biết!)
Chưa kể một ngày gần đây nhất, sau khi viết xong một bài báo, tôi thở phào. Nhưng rồi chợt nghe mùi khét. Nhìn quanh nhà rồi xuống bếp. Hóa ra tôi đã hầm một nồi xương với ngó sen thành than!
 - 3
TS Thanh giảng bài cho sinh viên
“Nói cho cùng, ta vẫn là phụ nữ Việt Nam”
Nói cho cùng, ta vẫn là phụ nữ Việt nam, nên ta vẫn nâng niu thiên chức của mình, không thể không dành thời gian chiều chuộng con, chăm sóc bố mẹ và giúp đỡ chồng.
Rồi tối đến, khi mọi người đã ngủ, ta một mình một vương quốc, có thể làm việc suốt đêm!
Lại trở về vấn đề “thiên chức”, phàm đã làm khoa học thì lại phải đi công tác, tham dự hội nghị, hội thảo... Việc đi thì phải đi mà tâm để ở nhà, lo con không ai đón, lo cha, mẹ trái gió trở trời không người biết chăm, lo mấy chậu cây nắng già bị quên tưới, lo bữa ăn chưa hợp khẩu vị cho cả nhà... Một nỗi lo triền miên của những người phụ nữ.
Thế nhưng bằng một sự quả cảm, vì bên cạnh đó, ta biết rằng ta vẫn được gọi là “phái yếu”. Và ta chẳng chối từ được những bản năng làm con, làm mẹ, làm vợ!
Rồi thì, phải chăng vì những bản năng đó mà hình thành nên tính bền bỉ và cần cù trong lao động khoa học cho các nhà khoa học nữ ở Việt nam”.
Võ Thị Kim Thanh

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

TÍNH LÃNG MẠN TRONG KIẾN TRÚC LĂNG CỦA CÁC HOÀNG ĐẾ


Võ Thị Kim Thanh1 và Nguyễn Vũ Trọng Thi2.
1Đại Học Huế
2Nghiên cứu sinh. Università Politecnica delle Marche, Department of Construction, Civil Engineering and Architecture, Faculty of Engineering
 (Bài viết theo sự đặt bài của Department of Construction, Civil Engineering and Architecture, Faculty of Engineering, Università Politecnica delle Marche. Bản tiếng Việt)

Ý tưởng xây dựng cho mình một chốn vĩnh hằng vừa tồn giữ quyền uy của đấng thiên tử, đồng thời đan lồng sự lãng mạn cho tâm hồn thi ca, đã làm cho các nhà vua và cũng là nhà thơ của Triều Nguyễn hiến cho người đời những công trình kiến trúc để đời và mãi mãi được chiêm ngưỡng. Những công trình này dành cho du khách những phút giây vừa tò mò với một di tích, nhưng lại được một cảm giác thư giãn tuyệt vời khi thả mình giữa chốn không gian tĩnh mịch u hoài với vi vút tiếng thông reo. Cảm giác đó dường như là sự khác biệt so với khi viếng thăm nhiều di sản văn hóa khác trên thế giới.
Hình 1: Đường đến Minh Lâu. Lăng vua Minh Mạng. Ảnh: VTK Thanh

Chúng tôi không bàn sâu về lịch sử hay kiến trúc công trình, mà chỉ là những cảm nhận của những người may mắn sống trên xứ Huế và thường xuyên thăm viếng mà chưa bao giờ thấy mình đã chiêm ngưỡng và cảm nhận đủ về nguồn tài nguyên tinh thần này.

CÓ MỘT VƯỜN THƯỢNG UYỂN Ở NGOẠI Ô HUẾ

Hãy để một cuộc viếng thăm thật nhẩn nha cho lăng của nhà vua Minh Mạng. Ngoài sự tôn nghiêm vốn có của một chốn hoàng thành, ngoài sự thâm u của một nơi chốn đi về của những linh hồn mà thực thể đã tan hòa với cát bụi trùng khơi cùng năm tháng, lăng Vua Minh Mạng cho du khách một cảm giác phiêu lãng tuyệt vời. Dĩ nhiên, các đấng minh quân tài hoa ngày ấy không nghĩ rằng công trình của mình có một ngày lại trở thành nơi chiêm ngưỡng, tôn vinh nền văn hóa nước Việt đồng thời là chốn thư giãn sang trọng cho thiên hạ bốn bể năm châu, người có thân thế cao sang hoàng thân quốc thích hay thợ thầy chân đất một ngày nghỉ ngơi sau năm tháng gánh gồng. Nhưng điều đó hôm nay đã hiển nhiên làm cho những công trình chủ thể đổi thay giá trị tinh thần.
Kiến trúc lăng vua Minh Mạng đã hàng trăm năm tỏa sáng theo ý tưởng của tinh thần xuyên suốt của 21 năm trị vì đất nước: “Quang Minh Chính Đại”. “Lăng là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ  được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua”[1]. Xen giữa và bao quanh những công trình kiến trúc đặc trưng của một nơi chốn âm dương giao hòa của miền vương phủ này là thiên nhiên và hoa lá. Cứ sau một lần dừng chân cho một biệt điện sơn son thiếp vàng có kiến trúc đặc biệt dành cho cõi tâm linh u tịch, huyền bí khiến du khách phải kết nối sự hình dung với dĩ vãng của các bậc Thiên Triều trong sự tôn ngưỡng, rồi bước ra, là lữ khách được đón chào bởi một không gian tươi rói, rạng rỡ sắc màu, dẫu cho thời tiết là nắng hay mưa. Nhà thơ đồng thời là đấng minh vương Minh Mạng với những ý tưởng thiết kế độc đáo, như tung hứng người đời sau với những cung bậc thăng trầm của cảm xúc khi hân hạnh được bước qua mỗi không gian thiết kế khúc chiết mà huy hoàng này. Ai đó nói, nhà vua tham vọng muốn bá chủ cả đất trời trong ý tưởng thiết kế lăng [1], chúng tôi nghĩ rằng, âu đã làm người, lại là người lãng mạn và yêu thiên nhiên thì hình như ai cũng mang trong mình tham vọng, không phải là bá chủ, mà là muốn thu tất cả sự lộng lẫy của vũ trụ vào trong niềm khao khát của mình!
Hình 2: Trục Thần Đạo. Lăng vua Minh Mạng. Ảnh: VTK Thanh

Cụm từ ‘vườn Thượng Uyển” cứ âm âm trong tôi mỗi khi ra khỏi một cụm di tích là được đắm mình vào một khoảnh vườn tươi mát lộng lẫy, giản dị mà sắc màu tươi mươi. Những người quản lý di tích như đã cảm được hết ý nghĩa của vấn đề này, nên ý tưởng của người dựng nên cơ đồ được tiếp thêm sức sống bởi những khóm hoa đủ sắc màu rung rinh trong khuôn viên lấp lánh bởi các ốp ngói âm dương, làm sống động hóa sự huy hoàng rạng rỡ của Ngự Uyển Hoàng Cung giữa thoang thoảng hương hoa sứ đài các và u hoài. Ngắm gần, nhìn xa, du khách đều được mãn nhãn bởi một thiên nhiên xanh tươi trong huyền lâm và thanh thủy. Sự tài hoa trong ý tưởng kiến trúc của vua cha Minh Mạng dường như được vua con Thiệu Trị từ chữ hiếu mà làm cho tổng thể công trình được nâng lên về giá trị của sự hoành tráng mà siêu thoát, uy nghiêm mà phiêu bồng.
Hình 3. Hoa trong “vườn Ngự Uyển”. Ảnh: VTK Thanh

MỘT CÔNG VIÊN HOÀNG GIA

Nếu Lăng Vua Minh Mạng được khuôn viên Ngự Uyển làm mềm đi các kiến trúc đăng đối uy nghiêm như một bài thơ Đường: hay mà nghiêm khắc luật câu chữ, thì Lăng vua Tự Đức được kiến trúc trong một ý tưởng “mở” như một bài thơ lãng mạn theo thể tự do mà hài hòa câu tứ. Vốn lăng được xây dựng đồng thời như một nơi vi hành của thơ ca xướng họa, thư giãn dương trần, làm cho công trình nhẹ đi sự u tịch mà sống động như ông Hoàng đang còn thấp thoáng đâu đây. Thay vì thẳng tắp như quân lệnh theo đường Thần đạo thì ở đây con đường đi đến Bửu Thành uốn lượn mềm mại bên triền dòng Lưu Khiêm. Trong khi phía tả trầm mặc với đền đài miếu mạo thì phía hữu là Tịnh Khiêm đảo hữu tình, Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ duyên dáng soi bóng xuống hồ sen thơm ngát.
Hình 4. Nghênh Lương Quán. Lăng vua Minh Mạng. Ảnh: VTK Thanh

Cho đến cuối con đường, du khách rồi cũng tìm ra được Bửu Thành và Lăng Khiêm Thọ… gọn gàng và giản dị một cách ngạc nhiên, nơi ngàn thông xao xuyến reo như thầm ru giấc ngàn thu nơi cuối trời của nhà Vua tinh tú và Lệ Thiên Anh Hoàng Hậu khả ái của Người. Tuy nhiên phải nhận ra rằng, Vạn Niên Cơ (Khiêm Cung) được xây dựng trên ý tưởng không chỉ làm khu lăng mộ, mà như một dưỡng đường để đức vua đôi lúc lánh mình khỏi chốn chánh cung đô hội, vì vậy đây không hẳn là một sự cách điệu trong kiến trúc lăng như bao sách bút đã truy vấn thảo lược [2], mà thật sự lăng chỉ là một cụm kiến trúc bao gồm trong dưỡng đường, bắt đầu từ các bậc tam cấp bước lên Bái Đình. Vì vậy không lạ là chỉ khu vực này mới xây cất bằng gạch, đá kiên cố. Còn các miếu đền phía ngoài hầu hết được kiến trúc bằng gỗ như trong Hoàng cung.
Hình 5. Xung Khiêm Tạ. Lăng vua Tự Đức. Ảnh: VTK Thanh

Cả công trình như một đại công viên mà ý tưởng tài hoa của kiến trúc sư hòa lẫn với sự thăng hoa của thi nhân ý chỉ đã hình thành nên. Những công đoạn kiến trúc khiến lữ khách đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Thuở còn rất trẻ, khi nơi đây chưa là một điểm du lịch, chúng tôi thường lang thang với ngàn thông vi vút, suối chảy róc rách, những thân cây đại mỹ miều với những cánh hoa nuột nà vàng mơ dâng tỏa một làn hương dịu ngọt, chúng tôi ngắm, chúng tôi vẽ, mấy cũng không thấy mình cảm được hết tuyệt tác đại mỹ quan này.
   
Tài liệu tham khảo
[2] http://www.hueworldheritage.org.vn/?catid=109&id=214

Huế. Tháng 11 năm 2012

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012

The effect on intake digestibility and microbial protein production of adding urea to rice straw for cattle and buffalo calves


LIVSCI Home

Livestock Science
Volume 150, Issue 1 , Pages 111-113, December 2012

http://www.journals.elsevierhealth.com/periodicals/livsci/article/S1871-1413(12)00318-6/abstract

Department of Animal Physiology, University of Agriculture and Forestry, Hue, Thua Thien Hue 84, Vietnam
Received 14 March 2012; received in revised form 11 August 2012; accepted 13 August 2012. published online 10 September 2012.

Abstract 

Four cattle calves (Boss indicus) of average weight 120kg and four swamp buffaloes calves of average weight 220kg were fed four rice straw diets in a Latin square design. The rice straw were sprayed with 0%, 0.5%, 1% and 2% of urea and givenad libitum. Each period was 15 days during the last 5 days of which urine and faeces were collected. Urine samples were analysed for excretion of purine derivatives (PD) to measure microbial protein production.
There was no significant effect on intake of rice straw which was 3.1, 3.4, 3.1 and 3.1 kgDM/day for cattle and 4.5, 4.5, 4.5 and 4.6kgDM/day for buffalo. Rumen NH3 concentrations were 39, 60, 70 and 96mg/l for cattle and 51, 81, 102 and 132mg/l for buffalo with significant difference. However the PD excretion in the urine was not significantly changed being 0.28, 0.19, 0.18 and 0.23mmol/kgW0.75 for cattle and as expected lower for buffaloes being 0.13, 0.11, 0.12 and 0.11mmol/kgW0.75. The dry matter digestibilities for cattle were 57.1, 60.3, 58.3 and 60.7 while for buffalo the digestibilities were 60.7, 57.4, 59.6 and 60.2.
The results suggest that the rice straw containing 6% protein and digestibility between 57% and 60% provided sufficient crude protein for microbial needs.

Effect of Temperature and Humidity on Heat Stress Responses in Vietnamese Yellow Cattle

IAEA INIS
http://www.fao.org/docrep/013/i1860e/i1860e.pdf

SUSTAINABLE IMPROVEMENT OF ANIMAL PRODUCTION AND HEALTH

Edited by N.E. Odongo, M. Garcia & G.J. Viljoen
Animal Production and Health Subprogramme
Joint FAO/IAEA Division of Nuclear Techniques in Food and Agriculture,
Department of Nuclear Sciences and Applications,
International Atomic Agency, Vienna, Austria

Food and Agriculture Organization of the United Nations
Rome, 2010

Effect of Temperature and Humidity on Heat Stress Responses in Vietnamese Yellow Cattle
V.T.K. Thanh  & W. Shichang 

ABSTRACT
Four female cattle (local Yellow breed), eight months of age, were  fed a diet of 50% urea-treated and 50% untreated rice straw  ad libitum, with free access to water. The levels of ambient temperature/ relative humidity (RH) were random combinations of 25, 29, 35 and  39°C and 70, 80 and 90% RH, achieved in an experimental chamber  fitted with air conditioners, heaters and ultrasonic humidifiers. The treatments were based on the natural conditions which frequently  occur in an indoor animal house in Central Vietnam in summer. Feed  intake decreased linearly while water intake increased with increasing ambient temperature. Heart rate increased in direct proportion to the air temperature but was not affected by RH levels. Body temperature only increased when the chamber temperature reached  39°C and RH was 90%, while respiration rate increased when the ambient temperate exceeded 35°C. Measurements of HSP70 (heat
shock protein, a biochemical stress indicator) from leukocytes using  PCR showed that HSP70 was evident when RH reached 90% with an  ambient temperature of 25°C, or with an RH of 70% and an ambient
temperature of 39°C.
Key words: Yellow cattle, heat stress, physiology indexes, HSP70.





Differences in adaptation to tropical weather between buffaloes and cattle

cover_ijas

http://www.aspajournal.it/index.php/ijas/article/view/ijas.2007.s2.1340
Differences in adaptation to tropical weather between buffaloes and cattle

Vo Thi Kim Thanh1, Wang Shi Chang2
1 Hue University of Agriculture and Forestry. Vietnam
2 Guangxi University, China
Corresponding author: Vo Thi Kim Thanh. Hue University of Agriculture and Forestry. Vietnam. 


Submitted: 2010-02-03 16:20:55
Published: 2010-02-03 16:21:04
Search for citations in Google Scholar
Related articles: Google Scholar


Abstract


Twenty buffaloes and twenty Vietnamese yellow cattle from peri-urban Hue city were kept indoor and used for measurement of effect of environmental temperature (To) and humidity (H%). The To and H% were recorded by thermo-hygrometers for temperature and humidity index (THI) measurement. Breathing rate was observed by moving rate of diaphragm, heart beat rhythms was calculated by stethoscope around 3 to 4 ribs and body To tested by 42oC thermo-meters in animal rectums. The results showed that the To in the area studied varied widely during the day and when To increased H% often decreased. During the study period the average To changed from 24oC in February to 39oC in May. The H% varied from 57 to 86. The environmental To and H% had very little effect on body To for both types of animals (37oC to 39oC) but there were changes in heart beat from 42 to 45 in cattle but from 44 to 57 in buffaloes. In warmest period with high H% (THI 83) breathing rates in cattle varied from 18 to 21 while in buffaloes from 20 to 35 and in May it increased to 50. At the warmest time of the day the heart beat in cattle were 42 while in buffaloes 57. The breathing rate in cattle only increased when ambient To was above 39 degrees. The results clearly showed that buffaloes were easily stressed when To and H% increased. Buffaloes need water and swamps to help to avoid heat stress while indigenous cattle are much better adapted to high environmental To and H%.


Key words: Temperature, Humidity, Buffaloes, Cattle.

Physiological mechanism of low purine derivative excretion in urine of buffaloes compared with Bos taurus cattle

CSIRO Publishingblank imageblank imageblank image
Animal Production Science http://www.publish.csiro.au/paper/EA08287.htm

Physiological mechanism of low purine derivative excretion in urine of buffaloes compared with Bos taurus cattle

Vo Thi Kim Thanh A DE. R. Orskov BP. Susmel C 

A Hue University of Agriculture and Forestry, 102 Phung Hung, Hue City, Vietnam. B Macaulay Institute, Aberdeen AB158QH, UK. C Udine University, Via S. Mauro, 2 – 33010 Pagnacco, Udine, Italy. D Corresponding author. Email: votkthanh@gmail.com 


Abstract
Three cattle calves (Bos taurus) and three buffalo calves (Bos bubalus) were weaned after receiving colostrum and then reared on bottle-fed milk. During the first month the animals did not have access to solid food. Urinary purine derivative concentration (PD), basal PD excretion and glomerular filtrate rate (GFR) were determined during fasting and feeding. After 1 month the animals were given access to solid feed (urea-treated rice straw 80% and molasses 20%) to stimulate rumen development. At 3 months of age, while the solid food was given, urinary PD, basal PD excretion and GFR were again determined.
Urinary PD excretion both during fasting and milk feeding did not differ significantly between buffaloes and cattle during the milk-feeding period (P > 0.05), but there were highly significant (P < 0.01) differences between cattle and buffaloes after 3 months of age and 2 months of access to solid feed (P< 0.01). The GFR was lower in buffaloes than cattle in both the milk-fed and solid-feed periods (P < 0.05).
It is suggested that the differences between buffaloes and cattle are due to differences in GFR as PD will stay longer in the blood and thus provide a greater possibility for recycling to the rumen. This, however, needs further confirmation. Whether permeability of PD from blood to rumen is an additional factor is not known.